Nằm trong quần thể di tích đình – đền – chùa Sủi, Đại Dương Sùng Phúc tự, thường được gọi là chùa Sủi hay chùa Phú Thị, là một trong những ngôi danh lam cổ tự đẹp trong vùng.
Chùa thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, và có lịch sử hàng nghìn năm, từ thời kỳ hương Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc xưa.
Một trong những ngôi chùa lâu đời ở nước ta
Tương truyền, chùa Sủi được xây dựng vào thế kỷ thứ II, thời kỳ đầu Phật giáo du nhập vào vùng Luy Lâu, tuy nhiên, các tư liệu lịch sử về giai đoạn này còn khá mơ hồ. Theo các nghiên cứu, chùa được xây dựng từ thời nhà Đinh do tướng công Đào Liên Hoa khởi công. Ban đầu, ngôi chùa chỉ là am thờ Phật làm bằng tre, nứa lá, sau đó chuyển sang khung gỗ và ngày nay là tường xây, mái ngói.
Phải đến thế kỷ thứ XVI, thông tin về chùa mới được khắc trên bia đá. Tấm bia khắc năm Đoan Thái thứ 4 (1589) ghi: “Hương lão xã Phú thị Nguyễn Phi, tự Trường Thọ cùng vợ, con gái, con rể cúng 5 sào vào chùa Đại Dương thờ bà Ỷ Lan Hoàng Thái hậu”.
Tấm bia khắc năm Bảo Đại thứ 8 (1933) lưu lại tại chùa chép rằng: “Đệ tam đế Lý triều Hoàng Thái hậu sở sáng dã”. Điều này ám chỉ thời kỳ bà Hoàng Thái hậu Ỷ Lan, vợ vua Lý Thánh Tông, đã kiến tạo và tu bổ chùa với quy mô lớn. Lý Thánh Tông, vị vua thứ 3 của triều đại nhà Lý, từng đến đất Thổ Lỗi và gặp người con gái Lê Thị Khiết (1044 – 1117), lập làm Nguyên phi Ỷ Lan. Năm 1066, sau khi Nguyên phi Ỷ Lan hạ sinh Thái tử Càn Đức, vua Lý Thánh Tông đã cho xây lại chùa và đổi tên thành Sùng Phúc Tự để tạ ơn trời Phật.
Dấu ấn thiền phái Thảo Đường
Phật giáo du nhập và phát triển ở Việt Nam đã có từ trước thời kỳ độc lập tự chủ (938). Đặc biệt, dưới thời nhà Lý và nửa đầu nhà Trần, Phật giáo trở thành Quốc giáo. Trong giai đoạn này, Thiền phái Thảo Đường, được hoàng đế Lý Thánh Tông tiếp nối và hoằng dương, đóng vai trò quan trọng.
Trong sách An nam chí lược chép: “Thảo Đường theo Thầy sang ở Chiêm thành. Lý Thánh Vương đi đánh Chiêm Thành, bắt được, cho làm đầy tớ sư Lục. Ngày nọ, sư Lục viết văn sớ để trên bàn, đi ra ngoài, Thảo Đường lén sửa chữa lại, sư Lục lấy làm lạ, tâu vua nghe, vua phong Thảo Đường làm quốc sư”.
Vua Lý Thánh Tông thấy Thiền sư Thảo Đường “Rất có đạo hạnh, biết rành sách Phật, vua Lý tôn làm thầy” và phong Quốc sư, mời đến trụ trì ở chùa Khai Quốc. Sự kiện này đã đánh dấu bước chuyển lớn trong cuộc đời của Lý Thánh Tông từ một nhà vua yêu nước đến một vị tu sĩ Phật giáo. Mở ra một phái thiền mới “Thiền phái Thảo Đường” và trở thành vị tổ truyền thừa thứ hai.
Tại chùa Sủi, còn lưu giữ nhiều văn bia và hoành phi quan trọng, minh chứng cho lịch sử lâu đời và sự phát triển của Thiền phái Thảo Đường. Tấm hoành phi Vân môn khải thánh có nghĩa là “Tông Vân Môn mở ra bậc thánh”, ám chỉ sự kết nối giữa Thiền phái Thảo Đường và Vân Môn tông. Câu đối “Viện danh Sùng Phúc tự thị Thảo Đường khai giáo địa; Đạo diễn Siêu Loại đương tam Lý hậu vấn nghi thời” nhấn mạnh vai trò của chùa Sủi trong việc khai mở Thiền phái Thảo Đường tại vùng Kinh Bắc.
Di sản quý giá của dân tộc
Di tích nằm trên địa thế rộng rãi, bằng phẳng của làng Phú Thị. Chùa được xây dựng theo hình chim Chu Tước và đường thiên lý đi xuống phía Nam ở phía trước. Phía sau có hình chim Huyền Vũ và một thôn gồm nhiều nhà trấn ở bên ngoài. Bên trái của chùa có hình rồng xanh trùng trùng hướng về và bên ngoài có hình hổ cuồn cuộn chầu tới.
Hai tòa nhà liền kề xây theo kiểu chữ Đinh quay mặt về hướng Nam bao gồm chùa chính. Toà Tam bảo được xây dựng theo kiểu chuôi vồ với bảy gian tiền đường và ba gian hậu cung. Các cột gỗ đều cao và thon tròn rất đẹp. Hai hành lang đối xứng nhìn nhau nằm dọc theo sân nhỏ phía sau đình. Ở hai đầu giáp tiền đường, có hai lầu tám mái treo chuông đồng và khánh đá. Mỗi hành lang có bảy gian, với các bức tượng của các La hán bên trong.
Tòa nhà Tổ cũng được xây dựng theo hình chuôi vồ, với hiên thông với cửa ngách mé Tây của toà Tam bảo, nhưng nó có mái thấp hơn và bề rộng của nó chỉ có ba gian hai dĩ. Phương đình, tượng đài và cổ thụ che chắn các tượng Tổ nhìn ra một sân lớn. 12 gian của dãy nhà khách và trai phòng nằm bên trái sân. Phía sau sân là một hội trường khá hiện đại, nơi có thể tổ chức các buổi lễ hoặc lớp học Tịnh độ.
Kiến trúc của chùa Sủi là một minh chứng sống động về nghệ thuật và kỹ thuật xây dựng cổ truyền Việt Nam. Chùa có kết cấu hình chữ Đinh với tòa Tam Bảo gồm bảy gian tiền đường và ba gian hậu cung. Nơi đây còn lưu giữ các tượng Phật cổ, bia đá và chuông đồng từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, mang giá trị thẩm mỹ cao.
Chùa Sủi lưu giữ 73 pho tượng cổ, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, với nhiều tượng mang giá trị thẩm mỹ cao như tượng A Di Đà, Thái hậu Ỷ Lan, Sư tổ Đạt Ma. Hệ thống bia đá của chùa gồm 19 bia, trong đó có những bia đá có niên đại từ thế kỷ XVI, mang giá trị lịch sử và văn hóa lớn. Đặc biệt, tấm khánh đá cổ từ đời Vĩnh Thịnh thứ 21 (1725) và quả chuông đồng lớn niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) là những di vật quý hiếm.
Lễ hội làng Sủi diễn ra mỗi năm với ba kỳ lễ lớn: Lễ hội làng từ ngày 1 đến 3 tháng 3 Âm lịch, giỗ Nguyên Phi Ỷ Lan vào ngày 25 tháng 7 Âm lịch và giỗ Tây Vị Đại vương tướng quân Đào Liên Hoa vào ngày 25 tháng 12. Không chỉ tưởng nhớ công đức của Nguyên Phi Ỷ Lan và tướng quân Đào Liên Hoa, lễ hội còn tổ chức các trò chơi dân gian, biểu diễn nghệ thuật và các hoạt động văn hóa thú vị.
Chùa Sủi không chỉ là một di tích lịch sử, văn hóa mà còn là một biểu tượng của sự kiên cường và lòng trung thành với tổ quốc. Trước Cách mạng tháng 8.1945 và trong hai cuộc kháng chiến, chùa Sủi là nơi tụ họp của các cán bộ Cách mạng. Nơi đây từng diễn ra lễ ra mắt Đoàn thanh niên cứu quốc Phú Thị và các lớp học bình dân học vụ. Trong kháng chiến chống Mỹ, chùa Sủi còn là nơi che chở cho các đơn vị bộ đội và là nơi sơ tán của Bệnh viện Đa khoa Gia Lâm. Với bề dày lịch sử và giá trị văn hóa đặc sắc, chùa Sủi xứng đáng là một điểm đến quan trọng cho những ai yêu thích và muốn tìm hiểu về văn hóa, lịch sử Việt Nam.
Nguồn: Laodong.vn